Trải qua thời kì dài đô hộ, con người Việt Nam đã chịu ảnh hưởng không ít nền văn hóa của các nước xâm lăng trong đó bao gồm cả văn hóa ẩm thực. Vào thế kỷ thứ X khi quân Mông Cổ xâm lược miền Bắc đất nước ta, chính họ đã đem thịt bò du nhập vào Việt Nam và nó thực sự có tác động đến khẩu phần ăn của chúng ta, thịt bò đã trở thành một món ăn phổ quát hơn trong đời sống người Việt. Tương tự cũng xãy với chế độ phong kiến Trung Quốc đã thống trị Việt Nam 1000 năm. Khi đó chính họ đã truyền dạy người Việt Nam các cách thức như: chiên và nướng thức ăn cũng như việc sử dụng đũa. Ở gần Việt Nam , những nước lân bang như: Lào , Campuchia , Thái Lan lại chỉ vẻ cho ta thành phần cũng như công thức tạo ra các loại bánh mì Cambodianstyle trong đó có chứa trứng, gia vị, ớt, nước cốt dừa.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI khi việc buôn bán ở đất nước ta được phát triển cũng là lúc các chuyên gia ẩm thực và các doanh nhân nhu nhập vào Việt Nam. Giới thiệu đến mọi người nhiều loại thực phẩm đa dạng được xuất khẩu từ đất nước của họ chuyển sang Việt Nam như: khoai tây, cà chua và đậu. Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam ( 1858-1954 ), họ truyền dạy các món ăn như: Baguettes ( bánh mì Pháp ), pa tê, cà phê với kem, sữa , bơ, sữa trứng và bánh ngọt. Trong năm 1960 và 1970 ( thời điểm chiến tranh Việt Nam ), quân đội Mỹ đã truyền cho ta cách thức làm kem khi ký hợp đồng với hai nhà máy sữa của Mỹ để xây dựng hàng chục nhà máy sản xuất kem.
Nói như vậy khôngcó nghĩa là ta phủ nhận văn hóa ẩm thực cha ông ta để lại. Dù cho được kết nối tinh hoa từ các khu vực trên thế giới nhưng chưa bao giờ người Việt quên lãng chính nền văn hóa lâu đời của mình. Sự phối hợp khéo léo, hòa quyện giữa các nền ẩm thực khác nhau làm cho hương vị của những món ăn truyền thống càng ngày càng đượm đà, sâu sắc hơn. Và thực tế cũng đã cho thấy rằng, không ít khách du lịch đến Việt Nam khi được nếm thử những món ăn dân quê do chính sự lao động cần mẫn của các bà, các chị tạo ra không ai không ngạc nhiên trầm trồ khen gợi rằng người Việt biết làm nên hương vị rất riêng cho chính mình.
Văn hóa ẩm thực của người Việt chủ yếu được chế biến từ các nguyên liệu đơn giản nhất đó chính là hạt lúa. Lúa là thực phẩm chủ yếu trong mỗi bửa ăn của người Việt. Con người Việt Nam chỉ thích gạo trắng hạt dài trái ngược hoàn toàn với người Trung Quốc, họ lại thích dùng những hạt gạo ngắn phổ quát hơn. Với khả năng sáng tạo thông minh cùng với bàn tay khéo, gạo được chuyển đổi thành các món ăn khác nhau như: rượu gạo, giấm gạo, tiểu mạch và giấy gói bánh tráng cho chả giò... Ngoài ra , gạo cũng được sử dụng để làm bún , có bốn loại bún phổ biến được sử dụng trong bửa ăn bao gồm: bánh phở là mì trắng bản to được dùng tạo nên món phở tinh túy. Bún mì (còn gọi là bún ) trông giống như những sợi chỉ dài màu trắng khi nấu chín. Bánh hoi là một phiên bản mỏng hơn của mì ăn bún.
Người dân ta còn tạo ra một loại nguyên liệu không thể thiếu trong từng món ăn. Đó Ấy là nước mắm. Nước mắm mặn được sử dụng trong đa số các công thức nấu bếp của Việt Nam như muối được sử dụng trong đa số các món ăn phương Tây. Nước mắm được làm ra tại các cơ sở được xây dựng dọc theo bờ biển của Việt Nam. Cá cơm và muối được xếp theo lớp trong thùng gỗ và sau đó được lên men trong khoảng sáu tháng. Nước mắm trong lần đầu được lấy ra sẽ là loại vật liệu ngon nhất. Dĩ nhiên nó cũng được bán với giá cả khá cao và chỉ được cung cấp tại một số nhà hàng cao cấp. Những phiên bản tiếp theo của loại nước mắm này thường có giá trị thấp hơn và được bày bán khắp nơi trên thị trường. Một chút ít muỗng nước chấm được chan trên bát cơm nóng hổi được coi là một bữa ăn nhà nông thật sự của Việt Nam.
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa thiên nhiên hình thành trong cuộc sống. Nhất là đối với người Việt Nam, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là văn hóa về tinh thần. Qua ẩm thực người ta có khả năng hiểu được nét văn hóa biểu lộ phẩm giá con người , Thấp văn hóa của dân tộc với những đạo lý , phép tắc , phong tục trong cách ăn uống...
Xem thông tin tại: Các công cụ quảng cáo
Bánh mì được chế biến phù hợp hơn với khẩu phần ăn người Việt
Bắt đầu từ thế kỷ XVI khi việc buôn bán ở đất nước ta được phát triển cũng là lúc các chuyên gia ẩm thực và các doanh nhân nhu nhập vào Việt Nam. Giới thiệu đến mọi người nhiều loại thực phẩm đa dạng được xuất khẩu từ đất nước của họ chuyển sang Việt Nam như: khoai tây, cà chua và đậu. Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam ( 1858-1954 ), họ truyền dạy các món ăn như: Baguettes ( bánh mì Pháp ), pa tê, cà phê với kem, sữa , bơ, sữa trứng và bánh ngọt. Trong năm 1960 và 1970 ( thời điểm chiến tranh Việt Nam ), quân đội Mỹ đã truyền cho ta cách thức làm kem khi ký hợp đồng với hai nhà máy sữa của Mỹ để xây dựng hàng chục nhà máy sản xuất kem.
Nói như vậy khôngcó nghĩa là ta phủ nhận văn hóa ẩm thực cha ông ta để lại. Dù cho được kết nối tinh hoa từ các khu vực trên thế giới nhưng chưa bao giờ người Việt quên lãng chính nền văn hóa lâu đời của mình. Sự phối hợp khéo léo, hòa quyện giữa các nền ẩm thực khác nhau làm cho hương vị của những món ăn truyền thống càng ngày càng đượm đà, sâu sắc hơn. Và thực tế cũng đã cho thấy rằng, không ít khách du lịch đến Việt Nam khi được nếm thử những món ăn dân quê do chính sự lao động cần mẫn của các bà, các chị tạo ra không ai không ngạc nhiên trầm trồ khen gợi rằng người Việt biết làm nên hương vị rất riêng cho chính mình.
Văn hóa ẩm thực của người Việt chủ yếu được chế biến từ các nguyên liệu đơn giản nhất đó chính là hạt lúa. Lúa là thực phẩm chủ yếu trong mỗi bửa ăn của người Việt. Con người Việt Nam chỉ thích gạo trắng hạt dài trái ngược hoàn toàn với người Trung Quốc, họ lại thích dùng những hạt gạo ngắn phổ quát hơn. Với khả năng sáng tạo thông minh cùng với bàn tay khéo, gạo được chuyển đổi thành các món ăn khác nhau như: rượu gạo, giấm gạo, tiểu mạch và giấy gói bánh tráng cho chả giò... Ngoài ra , gạo cũng được sử dụng để làm bún , có bốn loại bún phổ biến được sử dụng trong bửa ăn bao gồm: bánh phở là mì trắng bản to được dùng tạo nên món phở tinh túy. Bún mì (còn gọi là bún ) trông giống như những sợi chỉ dài màu trắng khi nấu chín. Bánh hoi là một phiên bản mỏng hơn của mì ăn bún.
Người dân ta còn tạo ra một loại nguyên liệu không thể thiếu trong từng món ăn. Đó Ấy là nước mắm. Nước mắm mặn được sử dụng trong đa số các công thức nấu bếp của Việt Nam như muối được sử dụng trong đa số các món ăn phương Tây. Nước mắm được làm ra tại các cơ sở được xây dựng dọc theo bờ biển của Việt Nam. Cá cơm và muối được xếp theo lớp trong thùng gỗ và sau đó được lên men trong khoảng sáu tháng. Nước mắm trong lần đầu được lấy ra sẽ là loại vật liệu ngon nhất. Dĩ nhiên nó cũng được bán với giá cả khá cao và chỉ được cung cấp tại một số nhà hàng cao cấp. Những phiên bản tiếp theo của loại nước mắm này thường có giá trị thấp hơn và được bày bán khắp nơi trên thị trường. Một chút ít muỗng nước chấm được chan trên bát cơm nóng hổi được coi là một bữa ăn nhà nông thật sự của Việt Nam.
Bún mắm- món ăn mới lạ và không kém phần hấp dẫn.
Xem thông tin tại: Các công cụ quảng cáo